Hiến định tư tưởng bảo đảm an sinh xã hội - thước đo giá trị nhân đạo của một quốc gia
EmailPrintAa
07:33 04/03/2012

Bảo đảm an sinh xã hội là yêu cầu quan trọng cần được hiến định vì đây chính là thước đo giá trị nhân đạo của một chế độ, một quốc gia. Những quy định của Hiến pháp năm 1992 về an sinh xã hội đã được kiểm nghiệm và chứng minh được sức sống trong thực tế cần phải được kế thừa, phát triển trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Từ Hiến pháp năm 1992, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về an sinh xã hội

Hiến pháp năm 1992 đã nội luật hóa quy định của các công ước quốc tế về quyền được hưởng an sinh xã hội của công dân. Quy định cốt lõi của Hiến pháp năm 1992 về an sinh xã hội cũng chính là quy định về quyền được hưởng an sinh xã hội của công dân.

Quyền được hưởng an sinh xã hội gồm: quyền tiếp cận và duy trì những trợ cấp bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật; không có sự phân biệt đối xử để bảo vệ con người trong các hoàn cảnh thiếu thu nhập từ việc làm do bị bệnh tật, bị khuyết tật, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tuổi già hoặc cái chết của mọi thành viên trong gia đình; không có khả năng chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; không đủ khả năng hỗ trợ gia đình đặc biệt là đối với trẻ em và những người cao tuổi sống phụ thuộc. Về mặt cấu trúc, chính sách an sinh xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội; trợ giúp xã hội; trợ cấp gia đình; các quỹ tiết kiệm xã hội và các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng...

Các quy định về an sinh xã hội trong Hiến pháp tập trung tại các Điều 56 về an sinh xã hội đối với người lao động; Điều 67 về an sinh xã hội đối với một số đối tượng đặc biệt: thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước, người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Ngoài ra, còn có một số nội dung được quy định tại: Điều 39, Nhà nước... thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe. Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào miền núi và dân tộc thiểu số; Điều 61, ... công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí; Điều 63, lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản... Nhà nước và xã hội tạo điều kiện chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.

Từ sau khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành đến nay, các quyền hiến định về an sinh xã hội đã được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, được tích cực triển khai thực hiện trong cuộc sống và đã đạt được những thành tựu đáng kể.

Về chính sách thị trường lao động: chính sách tín dụng ưu đãi gắn với tạo việc làm đào tạo nghề, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động; chính sách về xuất khẩu lao động, chính sách đào tạo nghề và hệ thống dịch vụ việc làm đã tạo cơ hội tham gia thị trường lao động cho người nghèo, thanh niên, lao động nông thôn, lao động trong khu vực phi chính thức, lao động dôi dư, lao động tàn tật và các nhóm lao động dễ bị tổn thương khác do bị tác động của các chính sách kinh tế xã hội và toàn cầu hóa. Nhà nước cũng đã ban hành khoảng 20 chính sách tín dụng ưu đãi, sử dụng cơ chế vay tín dụng thông qua các chương trình, tổ chức, hội đoàn thể; cấp bù lãi suất cho vay tín dụng ưu đãi khoảng 6.196 tỷ đồng cho phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động. Tính đến năm 2008, Quỹ quốc gia về việc làm đã tích lũy được trên 3.468 tỷ đồng và được phân bổ cho 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. Về xuất khẩu lao động, Nhà nước cũng đã thực hiện Đề án hỗ trợ 62 huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, bình quân mỗi năm đưa được khoảng 83 nghìn lao động, trong đó khoảng 80% lao động là thanh niên, người dân nông thôn. Tổng cục Dạy nghề trực thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng được tái thành lập. Các chính sách về học bổng cho các đối tượng thuộc diện chính sách, tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn; chính sách về dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số, đề án dạy nghề và tạo việc làm cho thanh niên; dạy nghề cho lao động nông thôn hàng năm có trên 1 triệu người lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật... đã góp phần quan trọng tạo việc làm, bảo đảm đời sống cho người dân.

Về chính sách bảo hiểm: Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ, từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên khoảng 9,4 triệu người năm 2009; tổng chi bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng tăng nhanh, từ 1.856 tỷ đồng năm 2001 lên khoảng 54,9 nghìn tỷ đồng trong năm 2009 (trong đó chi từ ngân sách Nhà nước là 26,8 nghìn tỷ đồng). Sau một năm triển khai thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện, số người tham gia đạt gần 50 nghìn người. Nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện ước tính đạt 69,5 tỷ đồng và chi khoảng 10,9 tỷ đồng năm 2009.

Về trợ giúp xã hội thường xuyên: điều kiện để được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên từng bước được cải tiến theo hướng mở rộng đối tượng được hưởng nên số đối tượng gia tăng nhanh, từ 416 nghìn đối tượng vào năm 2005 đã tăng lên trên 1,25 triệu đối tượng vào năm 2009. Nhiều mô hình trợ giúp xã hội được xây dựng phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng. Phong trào xã hội hóa chăm sóc đối tượng được mở rộng đã bổ sung một phần cho nguồn lực còn hạn chế từ ngân sách. Số cơ sở bảo trợ xã hội tăng nhanh. Tính đến tháng 12.2008, cả nước có khoảng 571 cơ sở bảo trợ xã hội. Các cơ sở bảo trợ xã hội trên nuôi dưỡng khoảng 14.613 đối tượng. Hơn 1/3 trong số đó là các cơ sở ngoài Nhà nước.

Về trợ giúp xã hội đột xuất: công tác cứu trợ đột xuất đã được triển khai tương đối kịp thời do có sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ. Đã huy động được phong trào tương thân, tương ái của mọi tầng lớp nhân dân, của các tổ chức quần chúng, các doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhờ đó đã đóng góp được một phần đáng kể cho những thiếu hụt từ ngân sách Nhà nước.

Các chính sách, chương trình giảm nghèo: hệ thống chính sách giảm nghèo tương đối toàn diện, tập trung vào các vùng đặc thù, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, miền núi. Giảm nghèo được thực hiện đồng thời trên cả ba phương diện: tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở và nước sinh hoạt; hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách tín dụng ưu đãi, đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, khuyến nông-lâm-ngư, phát triển ngành nghề, xuất khẩu lao động; và phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn. Đến nay, tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh, từ 29% năm 2002 giảm xuống còn 15,9% năm 2006 và 11,3% vào cuối năm 2009. Hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội công đã góp phần nâng cao khả năng tiếp cận của người dân, nhất là những người dân thuộc các đối tượng dễ bị tổn thương với các dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở, đường, điện sinh hoạt, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường, thông tin và tư vấn, trợ giúp pháp lý.

Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện hành về an sinh xã hội cũng bộc lộ một số hạn chế.

Trong thực hiện các chính sách thị trường lao động thì tỷ lệ thất nghiệp của lao động thanh niên còn cao và có xu hướng tăng; tỷ lệ lớn người lao động làm những việc dễ bị tổn thương, trong khu vực phi chính thức, điều kiện lao động kém, thu nhập bấp bênh; một bộ phận lớn lao động nông thôn, lao động dân tộc thiểu số khó tìm được việc làm do trình độ tay nghề thấp. Giải quyết việc làm, chuyển đổi sinh kế cho bộ phận lao động đặc thù như dân cư nông thôn có đất phải chuyển đổi mục đích sử dụng, người khuyết tật, lao động bị mất việc làm hàng loạt do khủng hoảng kinh tế còn chưa thực sự hiệu quả dẫn đến một bộ phận đáng kể người lao động không tìm được việc làm mới, hoặc có việc làm nhưng không ổn định.

Về chính sách hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm, vẫn còn một bộ phận người lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, nhất là tỷ lệ tham gia của lao động làm việc trong khu vực ngoài Nhà nước còn thấp.

Về trợ giúp xã hội thường xuyên thì đối tượng được thụ hưởng chính sách này cũng còn thấp, chỉ chiếm khoảng 1,23% dân số; các quy định về tiêu chí và điều kiện được hưởng trợ cấp thường xuyên còn quá chặt chẽ, trong khi đó, mức chuẩn để tính mức trợ cấp còn thấp, chỉ bằng 32,5% so với chuẩn nghèo và chưa bảo đảm nhu cầu trợ cấp của đối tượng. Bên cạnh đó, công tác xác định đối tượng cũng như công tác chi trả cũng còn nhiều bất cập, chưa tách bạch rõ nhiệm vụ xác định đối tượng và chi trả, trợ cấp còn chưa kịp thời đối với một số đối tượng ở vùng sâu, vùng xa, miền núi. Nhiều cơ sở chăm sóc đối tượng được hình thành nhưng khu vực tư nhân, đối tác xã hội chưa tham gia nhiều vào triển khai hoạt động chăm sóc đối tượng. Các mô hình chăm sóc đối tượng dựa vào cộng đồng chưa phát triển.

Các chính sách trợ giúp xã hội đột xuất thì phạm vi hỗ trợ còn hẹp, mới tập trung chủ yếu cho đối tượng bị rủi ro do thiên tai, chưa bao gồm các đối tượng bị những rủi ro kinh tế và xã hội; mức trợ cấp quá thấp, mới chỉ bù đắp được khoảng 10% thiệt hại của hộ gia đình; công tác quản lý hoạt động trợ giúp từ cộng đồng xã hội còn nhiều bất cập, khó kiểm soát và điều phối các nguồn hỗ trợ từ cộng đồng và các đối tượng cần trợ cấp. Việc triển khai các chính sách, chương trình giảm nghèo còn nhiều bất cập do nhiều cơ quan, tổ chức cùng tiến hành dẫn đến tình trạng chồng chéo về đối tượng, phân tán về nguồn lực; một bộ phận hộ nghèo không được hưởng lợi nhiều từ các chính sách do bị hạn chế về điều kiện tham gia. Trong khi đó, sự minh bạch của các thông tin về cơ chế chính sách khá hạn chế, một số đối tượng chưa biết thông tin về các chính sách, dự án từ đó làm giảm hiệu quả của chương trình. Công tác theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu quả giảm nghèo còn yếu.

Về hệ thống dịch vụ xã hội: hệ thống dịch vụ xã hội khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Hiện mới có 46% xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; khoảng 11,7% số xã chưa có nhà trẻ, mẫu giáo; trường học, nhất là ở vùng cao còn tạm bợ. Đội ngũ y bác sĩ, giáo viên ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn thiếu, chất lượng còn thấp, các trang thiết bị phục vụ chuyên môn còn thô sơ, lạc hậu, không đảm bảo chất lượng. Việc tiếp cận nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày vẫn là một thách thức. Hiện còn khoảng 45% hộ dân tộc thiểu số chưa có nước sinh hoạt, 30% chưa có điện so với 12% và 3% ở người Kinh, Hoa. Nhiều xã nghèo thuộc Chương trình 135 không đạt được các mục tiêu phát triển hạ tầng cơ sở. Khả năng tiếp cận tới dịch vụ xã hội của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương thấp, đặc biệt là nhóm người di cư nghèo ra đô thị và dân tộc thiểu số còn thấp. Xu hướng thương mại hóa trong cung ứng dịch vụ xã hội làm gia tăng bất bình đẳng xã hội giữa các nhóm dân cư. Sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội có nhiều hạn chế.

Cần kế thừa và phát triển tư tưởng về an sinh xã hội

Cần khẳng định rằng, bảo đảm an sinh xã hội, nhất là bảo đảm an sinh xã hội cho các đối tượng dễ bị tổn thương là yêu cầu quan trọng cần được hiến định vì đây chính là thước đo giá trị nhân đạo của một chế độ, một nhà nước và một quốc gia. Những quy định của Hiến pháp năm 1992 về an sinh xã hội đã được kiểm nghiệm và chứng minh được sức sống của nó, trong thực tế cần phải được kế thừa, phát triển trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Trước hết, cần kế thừa quy định về bảo đảm nguyên tắc nội luật hóa các quy định chuẩn mực của quốc tế về quyền con người, cụ thể là quyền của con người trong lĩnh vực xã hội, quyền được hưởng an sinh xã hội, nhất là đối với nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Việt Nam là thành viên của hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người; việc hiến định và thực hiện nghiêm túc việc nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền con người là thông điệp mạnh mẽ nhất thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người. Thứ hai là, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc về vấn đề nhân đạo. Thứ ba là, bảo đảm cho các đối tượng dễ bị tổn thương có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng các quyền an sinh xã hội. Thứ tư là, phải mở rộng đối tượng được hưởng an sinh xã hội. Cần thể hiện cho được trong Hiến pháp trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm an sinh xã hội cho công dân. Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền công dân mà còn phải bảo đảm, bảo vệ quyền an sinh xã hội của công dân và có biện pháp xử lý những hành vi vi phạm quyền an sinh xã hội của người dân. Có như vậy mới bảo đảm được trách nhiệm của quốc gia trong việc bảo đảm quyền an sinh xã hội cho công dân.

Vấn đề đặt ra là phát triển các tư tưởng của Hiến pháp năm 1992 về an sinh xã hội như thế nào? Về nguyên tắc, trước hết, chính sách an sinh xã hội phải bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về an sinh xã hội và phải khả thi. Phải căn cứ vào điều kiện thực tế để khi đã ghi nhận trong hiến pháp thì công dân, các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội sẽ được hưởng quyền an sinh xã hội thực sự. Một điều quan trọng nữa là phải tạo cơ hội bình đẳng cho các đối tượng. Đồng thời, cần quy định rõ nguyên tắc giới hạn quyền con người để tạo một khuôn khổ hiến định phòng tránh các trường hợp lạm dụng quyền con người để xâm phạm quyền con người của các chủ thể khác, trong đó đặc biệt là chủ thể mang tính chất đại diện nhà nước, công quyền. Tức là cần bảo đảm nguyên tắc khi anh thực hiện quyền con người thì cũng phải có giới hạn, cũng như khi anh truyền đạo là quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng nhưng nếu anh lợåi dụng việc truyền đạo để tuyên truyền, chống phá nhà nước thì phải bị xử lý - không thể coi hành động lạm quyền này là hợp pháp được.

Trên cơ sở các nguyên tắc nêu trên, đề xuất sửa đổi các quy định về an sinh xã hội trong Hiến pháp năm 1992 như sau:

Điều... Mọi người đều có quyền hưởng an sinh xã hội một cách bình đẳng trong chăm sóc y tế, trợ cấp gia đình, bảo đảm an sinh, thu nhập trong trường hợp ốm đau, thất nghiệp, tai nạn lao động, thai sản, tuổi già hoặc mất nguồn nuôi dưỡng.

Nhà nước và xã hội có nghĩa vụ bảo đảm quyền hưởng an sinh xã hội của công dân thông qua các hình thức bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các dịch vụ xã hội khác.

Người có công có quyền được hưởng ưu đãi xã hội. Nhà nước và xã hội có nghĩa vụ bảo đảm và chăm lo đời sống người có công


    Ý kiến bạn đọc