Trình tự có tính nguyên tắc thành lập Nhà nước
Đến những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, Đảng, Bác Hồ đã rất am tường quy trình (trình tự) có tính pháp lý trong việc xây dựng Nhà nước của một quốc gia. Bác chỉ rõ, “... chúng ta trước phải có một cái cơ cấu đại diện cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy phải do một toàn quốc đại biểu đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công cuộc cứu quốc, kiến quốc ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”(1). Bác đã chỉ ra rằng, trình tự thành lập Nhà nước, trước hết phải có Quốc hội, sau đó mới lập ra Chính phủ và hệ thống chính quyền. Nhưng trong điều kiện đất nước chưa có chính quyền thì mọi việc đều do Đảng lãnh đạo, “kiêm” tổ chức thực hiện. Việc đầu tiên là phải tổ chức một Đại hội quốc dân, một tiền thân của Quốc hội - một Quốc hội lâm thời. Và trong Đại hội này phải lập ra một tổ chức để khi cách mạng thành công thì tổ chức đó sẽ chuyển thành Chính phủ.
Tất cả những trù tính của Đảng, của Đại hội quốc dân đã diễn ra đúng như vậy. Nghĩa là Cách mạng Tháng Tám thành công, Ủy ban Dân tộc giải phóng được thành lập trong Đại hội, đến ngày 25.8.1945, Ủy ban về đến Hà Nội, theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban - Cụ Hồ Chí Minh, Ủy ban đã được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đến ngày 2.9.1945 thì tuyên bố với thế giới rằng, Việt Nam là một nước hoàn toàn độc lập.
Có QH rồi mới có Chính phủ, trình tự này đã được thực hiện rất chuẩn xác, chỉ khác là, tất cả còn ở vị thế “lâm thời”.
![]() |
Hiến pháp tạm thời
Quốc dân Đại hội đã quyết nghị Chương trình 10 điểm và giao cho Ủy ban Dân tộc giải phóng thi hành. Chương trình này như một bản Hiến pháp tạm thời chỉ đạo hành động của Chính phủ lâm thời. Nội dung Chương trình gồm:
1 - Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập. 2 - Võ trang nhân dân. Phát triển Quân giải phóng Việt Nam. 3 - Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tùy từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo. 4 - Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ. 5 - Ban bố những quyền của dân, cho dân: nhân quyền; tài quyền (quyền sở hữu); dân quyền; quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền. 6 - Chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân. 7 - Ban bố Luật Lao động: ngày làm việc 8 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm. 8 - Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở quốc gia ngân hàng. 9 - Xây dựng nền quốc dân giáo dục, chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp, kiến thiết nền văn hóa mới. 10 - Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ.(2)
Vào thời điểm lịch sử tháng 8.1945, Chương trình 10 điểm trên đây được coi như một bản Hiến pháp tạm thời. Tuyệt đại bộ phận các điểm có sự tương ứng, đồng nghĩa với tất cả các bản Hiến pháp trong suốt 72 năm qua. Nói cách khác, Chương trình 10 điểm chính là “xương sống”, là rường cột, là những nội dung cơ bản để xây dựng các Hiến pháp sau này. Ngay cả Hiến pháp mới nhất năm 2013, ta vẫn thấy có sự tương đồng, tương ứng gần gủi với 10 điểm được xác định trong Đại hội quốc dân từ tháng 8.1945:
Điểm 1, tương ứng với Chương I - Chế độ chính trị (thể chế Nhà nước). Điểm 2, tương ứng với Chương IV- Bảo vệ Tổ quốc (trong đó có nhân tố quan trọng là lực lượng vũ trang nhân dân). Điểm 5, tương ứng với Chương II- Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cần phải nói thêm rằng, ngay từ khi ấy, vấn đề nhân quyền đã được Đảng ta đặt ra với tinh thần là một vấn đề cấp bách của thời cuộc chứ không phải đến bây giờ mới nói. Các Điểm 4, 6, 7, 8, 9 tương ứng với Chương III - Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Cũng ngay từ bấy giờ, các vấn đề phổ cập giáo dục sơ cấp; xã hội bảo hiểm, đặt lương tối thiểu, cứu tế nạn dân, ban bố Luật Lao động, nghĩa là những trụ cột chính của an sinh xã hội (như chúng ta nói ngày nay) đã được đặt ra thành nhiệm vụ của cách mạng từ bấy giờ mà cho đến tận ngày nay chúng ta vẫn phải tiếp tục và còn tiếp tục lâu dài. Điểm 10, tương ứng với đường lối đối ngoại ở Điều 12 (Chế độ chính trị) của Hiến pháp năm 2013.
Với “Hiến pháp tạm thời” này, Chính phủ lâm thời có đầy đủ cơ sở pháp lý để hành động, điều hành công việc cách mạng, chính danh và hợp pháp.
Về quy trình, thủ tục của Đại hội
Trong Đại hội có 6 báo cáo cơ bản được trình bày. Báo cáo tình hình thế giới và trong nước do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày, trong đó chỉ rõ thời cơ khởi nghĩa đã đến; báo cáo về phong trào công nhân do đồng chí Hoàng Quốc Việt trình bày; báo cáo về tình hình nông dân do đồng chí Trần Đức Thịnh trình bày; báo cáo về “Một nền văn hóa mới” do đồng chí Nguyễn Đình Thi trình bày; báo cáo phong trào cách mạng ở Hà Nội do đồng chí Vũ Oanh trình bày; và báo cáo về phong trào hướng đạo do đồng chí Hoàng Đạo Thúy trình bày.
Sau công đoạn trình bày các báo cáo là công đoạn thảo luận. Xem lại các tài liệu lịch sử, chúng ta dễ dàng nhận thấy, trong công đoạn thảo luận thực chất là hàm chứa 3 tiểu công đoạn hay 3 loại hình hoạt động xen kẽ nhau: phát biểu ý kiến để làm rõ tình hình; vấn - đáp để thông hiểu chủ trương mà hành động cho đúng; và chất vấn để làm rõ trách nhiệm. Sự đan xen này là hoàn toàn hợp lý vì, Đại hội chưa phải là một QH hoàn chỉnh để tổ chức bộ máy phù hợp với mỗi hoạt động. Vã lại, yêu cầu cấp bách (tính bằng ngày, thậm chí bằng giờ) để toàn quốc nổi dậy Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền - vấn đề cơ bản của bất kỳ một cuộc cách mạng xã hội nào...
Trở lại các hoạt động nói trên, lấy hoạt động chất vấn làm ví dụ. Theo lời kể của đồng chí Vũ Quang, khi Đại hội đang sôi nổi bàn về thái độ của nhân dân ta đối với quân Đồng minh vào giải giáp quân đội phát xít Nhật thì đại biểu Trần Huy Liệu đã phát biểu, chất vấn tỏ ý chưa thông suốt về thái độ ứng xử mềm dẻo của chúng ta, Đại biểu Trần Huy Liệu nói: “Thực dân Pháp bắt dân ta làm nô lệ 100 năm - nay nó muốn quay lại thì đề nghị Bác cho đánh nó ngay khi nó vừa đặt chân lên đất nước ta”(3). Trong suốt thời gian chuẩn bị Đại hội, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, Bác đã nắm rất vững thời cơ nhưng đồng thời cũng luôn thấy rõ nguy cơ. Bác phân tích, ta với tư thế là người làm chủ đất nước, đón tiếp Đồng minh với thái độ người chủ nhân đất nước... Với lý lẽ hợp lý, sắc bén của Bác, đại biểu Trần Huy Liệu sửng sốt tiếp nhận ý kiến của Bác và tỏ rõ nhất trí cao.
Tổng quát về hoạt động chất vấn, đại biểu Nguyễn Đình Thi viết: “Tôi còn nhớ anh Trần Đức Thịnh, lúc đó là Xứ ủy viên phụ trách nông vận, đã nói rất hăng, nêu nhiều vấn đề gai góc. Anh Dương Đức Hiền cũng nêu những câu hỏi thẳng thắn về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Đảng Dân chủ Việt Nam. Bác đã trả lời cặn kẽ những câu hỏi của từng người, không sót một ai. Cho đến lúc không còn ai hỏi thêm nữa, và đều vui vẻ vì đã thông suốt các công việc. Bác chúc các đại biểu về nhanh các địa phương, giúp lãnh đạo khởi nghĩa thắng lợi”(4)...
Sự thật là, tất cả các khóa Quốc hội trong suốt các nhiệm kỳ sau này và ngay cả bây giờ thì nội dung, trình tự, thủ tục kỳ họp cũng đều được kế thừa đúng một “khuôn mẫu” của Quốc dân Đại hội. Điều khác hơn chỉ là, sau này QH có bộ máy ngày càng hoàn thiện hơn, có thời gian đầy đủ hơn trong điều kiện Nhà nước đã được thiết lập nên các hoạt động, các công đoạn của mỗi công việc đều được tách bạch rành rẽ, có ranh giới rõ ràng hơn. Coi Quốc dân Đại hội Tân Trào là một Quốc hội lâm thời, nhưng có vai trò quan trọng đặt nền móng cho các khóa QH sau này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ, “từ Quốc dân Đại hội Tân Trào đến sự ra đời của Quốc hội Khóa I và sự vận động phát triển của 12 nhiệm kỳ Quốc hội tiếp theo là quá trình liên tục kế thừa, đổi mới, với những việc làm cụ thể, kịp thời, từ thấp đến cao, phù hợp với diễn biến và yêu cầu của mỗi giai đoạn”(5).
_______________
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7 (1940 - 1945), Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000. trang 352-353
(2) Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 -1960, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1994, trang 20, 21.
(3) Quốc dân Đại hội Tân Trào, VPQH, H. 1995, trang 49.
(4) Như (3) , trang 43.
(5) Diễn văn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại lễ kỷ niệm 70 năm ngày Tổng tuyển cử đầu tiên (6.1.1946 - 6.1.2016).
Tin mới cập nhật
- Có 11 giải pháp và 19 công trình xuất sắc được trao giải tại hội thi, cuộc thi sáng tạo kỹ thuật Hà Tĩnh năm 2025 ( 24/06)
- Hương Khê và Vũ Quang tập trung hoàn thiện các điều kiện về cơ sở hạ tầng và nhân lực để vận hành thông suốt chính quyền địa phương 2 cấp ( 22/06)
- Vận hành thử nghiệm mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tại xã Đức Thọ mới. ( 21/06)
- Phường Bắc Hồng Lĩnh (mói) vận hành thử nghiệm kỳ họp HĐND lần thứ nhất và Trung tâm Phục vụ hành chính công ( 20/06)
- Vận hành thử nghiệm hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp tại phường Trần Phú (mới ) ( 20/06)
- Hà Tĩnh chính thức còn 69 đơn vị hành chính cấp xã ( 16/06)