Sức mạnh từ khát vọng độc lập, tự do
EmailPrintAa
22:16 07/05/2019

Năm 1954, trên miền Tây Bắc thân yêu của Tổ quốc, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu đã đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp, dựng lên mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Sức mạnh làm nên chiến thắng thần kỳ ấy chính là ở khát vọng độc lập, tự do của mỗi con người Việt Nam.

Gan không núng, chí không mòn

Đến năm 1953, sau 8 năm theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, dù đã huy động tiềm lực kinh tế, quân sự lên mức cao nhất có thể nhưng thực dân Pháp vẫn không thực hiện được mục đích đề ra là tiêu diệt Chính phủ kháng chiến và Quân đội cách mạng, thiết lập lại nền thống trị như cũ, mà ngược lại, phải gánh chịu những tổn thất nặng nề, như bị thiệt hại 390.000 quân, vùng kiểm soát thu hẹp, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng diễn ra ngày càng sâu sắc...

Lợi dụng tình thế khó khăn này, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào Đông Dương, tích cực viện trợ cho thực dân Pháp kéo dài và mở rộng cuộc chiến nhằm phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ.

Tháng 7.1953, Chính phủ Pháp thông qua kế hoạch quân sự mới do Tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, dự thảo (còn được gọi Kế hoạch Nava). Nội dung cơ bản là tập trung xây dựng khối chủ lực mạnh, có khả năng cơ động cao, mở cuộc tiến công chiến lược giành thắng lợi quyết định. Thực hiện kế hoạch quân sự mới đề ra, thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân càn quét bình định, bắt lính; đồng thời đưa nhiều đơn vị quân viễn chinh sang tăng cường. Chỉ sau một thời gian ngắn, trên chiến trường Đông Dương, địch đã củng cố, xây dựng được 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, trong đó tập trung 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ.

Bộ đội Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) cắm cờ trên nóc hầm Đờ - cát chiều 7.5.1954 Ảnh: TL

Trước âm mưu và hành động của địch, bước vào chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954, Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh phía Việt Nam chủ trương: “Tập trung lực lượng mở 5 đòn tiến công chiến lược vào những hướng quan trọng mà địch tương đối yếu (Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia, Bắc Tây Nguyên và Thượng Lào) vừa nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, vừa buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, tạo điều kiện thuận lợi cho ta đẩy mạnh hoạt động làm phá sản Kế hoạch Nava”.

Chấp hành chủ trương, chiến lược đã đề ra, từ tháng 11.1953 đến đầu năm 1954, quân và dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ cùng với quân dân hai nước bạn Lào - Campuchia mở các cuộc tiến công trên khắp chiến trường Đông Dương theo các hướng đã chọn, buộc Pháp phải phân tán lực lượng đối phó. Đặc biệt, tại mặt trận Tây Bắc, trước sự tiến công quyết liệt của quân ta, tướng Nava quyết định điều quân xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Theo đánh giá của giới quân sự Pháp và Mỹ, thì Điện Biên Phủ giữ vị trí chiến lược quan trọng, nơi đây giống như “cái bàn xoay” có thể xoay đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc. Và là “cái chìa khóa” để bảo vệ Thượng Lào, từ đó có thể đánh chiếm lại các vùng đã mất. Đến đầu tháng 3.1954, địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên đến 16.200 quân, gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân thuộc loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương; bố trí thành hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá Điện Biên Phủ là “pháo đài không thể công phá”, thách thức đối phương tiến công.

Về phía ta, sau khi phân tích kỹ tình hình mọi mặt, nhất là so sánh tương quan lực lượng địch - ta, Trung ương Đảng và Bộ chỉ huy quân đội tối cao hạ quyết tâm mở chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ - đòn quyết chiến chiến lược nhằm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cả nước được lệnh dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng chiến đấu gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351. Tổng số quân chủ lực của ta khoảng 40.000 người, nếu tính cả tuyến hai thì quân số lên tới 55.000 người. Lực lượng phục vụ có trên 260.000 dân công, hàng vạn thanh niên xung phong, phương tiện tham gia gồm có 628 ô tô vận tải, 21.000 xe đạp thồ, cùng nhiều tàu thuyền, lừa, ngựa. Trong thời gian ngắn, ta đã huy động 27.400 tấn gạo, sửa chữa, mở mới hàng nghìn km đường. Công tác chuẩn bị các mặt của ta vượt ra ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.

Ngày 13.3.1954, quân ta nổ súng tấn công, mở màn chiến dịch. Phối hợp chặt chẽ với quân dân Tây Bắc, trên khắp các chiến trường cả nước, quân và dân các địa phương đẩy mạnh hoạt động tiến công tiêu hao, tiêu diệt, giam chân địch. Sau 56 ngày đêm liên tục chiến đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ hy sinh, “gan không núng, chí không mòn”, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 địch, bắt sống tướng chỉ huy (Đờ-cát), thu toàn bộ vũ khí trang bị, bắn rơi 62 máy bay, kết thúc thắng lợi trận quyết chiến chiến lược, đập tan những cố gắng quân sự cuối cùng của thực dân Pháp trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất.

“Tiếng sấm” Điện Biên Phủ

Với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân Việt Nam buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ 9 năm (1945 - 1954). Cũng từ đây, “tiếng sấm” Điện Biên Phủ có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa trên thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc xâm lược, đồng thời góp phần làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhất định thất bại; cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công.

Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng; từ tinh thần yêu nước nồng nàn và nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam được kế thừa và phát triển lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh; bắt nguồn từ tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương; sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình, ủng hộ từ bè bạn quốc tế, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp. Nhưng nguồn gốc sâu xa, căn bản nhất chính là từ tình yêu quê hương đất nước, là khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng trong mỗi con dân đất Việt. Đó cũng là nhân tố nền tảng tạo nên sự đồng thuận rộng lớn và vững bền của khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh to lớn để dân tộc Việt Nam vượt qua bao thăng trầm lịch sử, mà chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những minh chứng hùng hồn, tiêu biểu nhất.

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm qúy báu: Giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, chủ động tạo thời cơ, kịp thời nắm bắt, chớp thời cơ giành thắng lợi quyết định; luôn luôn quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân vững chắc, không ngừng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn sàng thực hiện tốt mọi nhiệm vụ đề ra; không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Những bài học kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Theo Trần Hữu Huy/daibieunhandan.vn

    Ý kiến bạn đọc