|
|
Lý do: (i) Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại (như cán bộ tham mưu, lãnh đạo ký duyệt, cán bộ chuyên môn thực hiện...), hiện Luật chưa có quy định để xác định, phân chia mức độ lỗi của từng người. Dẫn đến mức hoàn trả áp dụng theo quy định hiện nay chưa phản ánh đúng mức độ lỗi của từng người thi hành công vụ cùng gây thiệt hại (tham gia vụ việc với các vai trò khác nhau, nhưng mức hoàn trả bằng nhau), từ đó chưa phản ánh đúng thực tiễn bản chất vụ việc. (ii) Cùng thực hiện một hành vi vi phạm vào cùng thời điểm nhưng số tiền hoàn trả của những người thực hiện hành vi được tính theo quy định tại khoản 2 Điều 65 Luật TNBTCNN (được hướng dẫn cụ thể tại Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP) chênh lệch nhau quá lớn nên chưa đảm bảo được sự công bằng giữa những người thực hiện hành vi gây thiệt hại. Điều này là do quy định về thời điểm tính lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại để hoàn trả có sự khác nhau (Luật phân định thành các trường hợp như người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ việc tại cơ quan nhà nước, đã nghỉ hưu, đã chết...), đặc biệt đối với vụ việc xảy ra cách đây hàng chục năm thì chênh lệch mức lương lớn, dẫn đến chênh lệch mức hoàn trả; một số tình huống bồi thường nhà nước đã phát sinh trên thực tế nhưng chưa được quy định.
Đối với Luật này, Bộ Tư pháp đã có trả lời cụ thể như sau:
Hiện nay, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại được quy định tại Chương VII (từ Điều 64 đến Điều 72) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và Chương IV (từ Điều 26 đến Điều 31) Nghị định số 68/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Theo đó, việc xác định trách nhiệm hoàn trả sẽ do Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả thực hiện. Việc xác định mức hoàn trả của từng người thi hành công vụ gây thiệt hại phải dựa trên cơ sở nhiều yếu tố, tình tiết và nhân thân của người thi hành công vụ có hành vi gây thiệt hại: (i) mức độ lỗi của người thi hành công vụ (điểm a khoản 1 Điều 65 Luật TNBTCNN); (ii) số tiền Nhà nước đã bồi thường (điểm b khoản 1 Điều 65 Luật TNBTCNN); (iii) mức lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại tại thời điểm có quyết định hoàn trả (khoản 1 Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP); (iv) các điều kiện về việc giảm mức hoàn trả cho người thi hành công vụ gây thiệt hại (khoản 4 Điều 65 Luật TNBTCNN).
Trường hợp mỗi người thi hành công vụ gây thiệt hại với vai trò khác nhau (lãnh đạo, tham mưu, chuyên môn...), theo điểm b khoản 6 Điều 28 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP, Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả có trách nhiệm đánh giá, xác định mức độ lỗi của người thi hành công vụ gây thiệt hại, căn cứ vào quy định của pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và hồ sơ tài liệu thi hành công vụ, văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường để xác định mức độ lỗi (cố ý hoặc vô ý), xác định mức hoàn trả theo mức từ tối thiểu đến tối đa tương ứng với từng mức độ lỗi theo quy định tại Điều 65 Luật TNBTCNN năm 2017 và Điều 26 Nghị định số 68/2018/NĐ-CP để tính mức hoàn trả của từng người.
Căn cứ để tính mức hoàn trả là lương của người thi hành công vụ gây thiệt hại để hoàn trả là lương cơ sở nhân với hệ số theo ngạch, bậc theo quy định của pháp luật tại thời điểm có quyết định hoàn trả; trường hợp tại thời điểm có quyết định hoàn trả, người thi hành công vụ gây thiệt hại đã nghỉ việc tại cơ quan nhà nước thì việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại căn cứ vào lương của người đó tại thời điểm trước khi nghỉ việc.
Như vậy, với quy định hiện hành của pháp luật về bồi thường nhà nước về cơ bản đã xử lý được kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn nữa quy định về trách nhiệm hoàn trả, trong quá trình sửa đổi Luật TNBTCNN (dự kiến vào năm 2026), Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu để đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về xem xét trách nhiệm hoàn trả cho phù hợp với thực tiễn.
Tin mới cập nhật
- Về khung danh mục vị trí việc làm cụ thể, phù hợp với đặc thù tổ chức và yêu cầu nhiệm vụ ở cấp xã ( 06/10)
- Nhiều kiến nghị trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo được làm rõ ( 06/10)
- Sẽ xem xét, sửa đổi Nghị định số 119/2017/NĐ-CP và Nghị định 126/2021/NĐ-CP của Chính phủ ( 06/10)
- Việc sáp nhập, hợp nhất các hội quần chúng (không phải là hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ) thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ( 03/10)
- Sẽ tham mưu, đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án kinh tế, tham nhũng ( 03/10)
- Sẽ đề nghị mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật ( 03/10)













