Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Tĩnh thảo luận về dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
EmailPrintAa
10:08 25/05/2020

Bước sang tuần làm việc thứ 2, sáng nay (25/5), Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV tiếp tục tiến hành thảo luận trực tuyến về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu điều hành phiên thảo luận.

Toàn cảnh Quốc hội tham gia Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.(Ảnh quochoi.vn)

Sau khi nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga trình báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Tại điểm cầu Hà Tĩnh, đại biểu Nguyễn Văn Sơn - Phó Trưởng Đoàn phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Nguyễn Văn Sơn phát biểu đồng tình cao với báo cáo, đồng thời tham gia góp ý thêm một số vấn đề về nguyên tắc hòa giải, đối thoại; kinh phí đảm bảo cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án; điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên; trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên, phương thức hòa giải, đối thoại… cụ thể:

Về nguyên tắc hòa giải, đối thoại (Điều 3): Tại khoản 7, Điều 3 quy định: “Hòa giải viên tiến hành hòa giải đối thoại độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nhưng tại điểm d, khoản 1, Điều 14 lại quy định về quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên. Quy định như vậy là không thống nhất. Vì vậy để đảm bảo khi tiến hành hòa giải, đối thoại Hòa giải viên độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đề nghị quy định: “Trước khi tiến hành hòa giải, đối thoại, Hòa giải viên có thể tranh thủ ý kiến của người có uy tín, tham khảo ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về lĩnh vực mà mình hòa giải”. Dự thảo luật cũng cần quy định rõ việc chi trả kinh phí trong trường hợp tranh thủ ý kiến của người có uy tín, tham khảo ý kiến của cơ quan tổ chức, cá nhân trong các trường hợp này.

Về kinh phí đảm bảo cho công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Điều 6): Tranh chấp dân sự là việc của hai bên đương sự, Tòa án giữ vai trò trọng tài đứng ra phán xử. Về nguyên tắc, chi phí phải do đương sự chi trả nhưng trong lúc đang khiếu kiện hòa giải dự thảo Luật quy định kinh phí chi trả do Nhà nước bảo đảm. Quy định này cần được đánh giá tác động đầy đủ trong hồ sơ dự án Luật có làm tăng chi ngân sách, biên chế so với xử lý vụ án tại tòa trước đây.

Đại biểu Nguyễn Văn Sơn cũng tán thành với quan điểm trước mắt kinh phí cho hoạt động này do ngân sách Nhà nước đảm nhận. Tuy nhiên, sau này cần có sự đánh giá tổng kết đầy đủ về tác động, đồng thời quy định các bên tham gia hòa giải phải chịu chi phí theo quy định pháp luật.

Về điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên (Điều 10): Tại khoản 1, Điều 10 dự thảo luật cần quy định rõ ràng, tách bạch các điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên như: Đối với nhóm đối tượng là Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên, Chấp hành viên Thi hành án dân sự… sau khi nghỉ hưu được xem xét bổ nhiệm thành hòa giải viên, những đối tượng này chỉ cần có đầy đủ các điều kiện quy định tại điểm a và điểm c, khoản1, Điều 10, còn về yêu cầu chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải, đối thoại cũng như có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải, đối thoại của Tòa án thì không cần thiết, vì đây là những nguồn nhân lực có chất lượng cao có kinh nghiệm chuyên môn trong công tác pháp luật, đặc biệt là công tác tư pháp đồng thời đã được đào tạo, sát hạch, bổ nhiệm rất khắt khe.

Với nhóm đối tượng là “Luật sư, chuyên gia, nhà chuyên môn quy định phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác”, đại biểu Nguyễn Văn Sơn cho rằng không phù hợp. Vì đây là những người có trình độ chuyên môn về pháp luật chuyên nghiệp, tham gia giải quyết nhiều vụ án lớn, phức tạp.

Về đối tượng là những người có hiểu biết về phong tục tập quán, có uy tín trong cộng đồng dân cư nếu có đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại điểm a, b, c, d, khoản 1, Điều 10 thì có thể được bổ nhiệm làm hòa giải viên. Phó Trưởng Đoàn phụ trách Nguyễn Văn Sơn đề nghị bổ sung thêm quy định thời gian có kinh nghiệm, kỹ năng hòa giải của nhóm đối tượng này là 05 năm, nhằm đảm bảo họ ngoài hiểu biết về phong tục tập quán, có uy tín trong cộng đồng dân cư nhưng cũng am hiểu các quy định của pháp luật, hiểu rõ được các quy trình thủ tục hòa giải, từ đó đảm bảo được chất lượng hoạt động hòa giải, đối thoại. Ngoài ra, đề nghị bổ sung thêm đối tượng là Hội thẩm sau khi thôi không làm Hội thẩm có thể được xem xét làm Hòa giải viên.

Phó Trưởng Đoàn phụ trách ĐBQH tỉnh Nguyễn Văn Sơn phát biểu thảo luật về dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định Hòa giải viên (Điều 18): Trên thực tế nhiều trường hợp Tòa án nhận đơn, nhưng không xử lý đúng thời hạn theo quy định pháp luật, gây bức xúc cho các đương sự, nhiều đơn khiếu kiện vượt cấp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Do vậy, đề nghị bổ sung quy định sau khi nhận đơn khiếu kiện, Tòa án có trách nhiệm thông báo đến Viện KSND cùng cấp để có sự giám sát của Viện Kiểm sát.

Về phương thức hòa giải, đối thoại (Điều 22): Khoản 2, Điều 22 quy định việc hòa giải, đối thoại có thể được tiến hành tại trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án. Vậy việc tiến hành ngoài trụ sở tòa án sẽ tiến hành ở đâu? Theo đại biểu nên quy định việc tiến hành ngoài trụ sở Tòa án do Hòa giải viên và các đương sự thỏa thuận lựa chọn nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật…

Cuối phiên làm việc buổi sáng, Quốc hội tiếp tục nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp; Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra về dự thảo Nghị quyết về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp và tiến hành thảo luận trực tuyến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp.

Nhóm PV

    Ý kiến bạn đọc