Về tình hình kinh tế - xã hội năm 2025 và giai đoạn 2021-2025 , thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 và đặc biệt là năm 2025 trong bối cảnh vô cùng khó khăn. Tình hình thế giới phức tạp, cạnh tranh thương mại gay gắt. Ở trong tỉnh, chúng ta vừa phải khắc phục hậu quả của đại dịch Covid-19 đầu nhiệm kỳ, lại vừa phải hứng chịu thiên tai khốc liệt. Riêng năm 2025, Hà Tĩnh chịu ảnh hưởng nặng nề của 3 cơn bão lớn (bão số 5, 6, 10) và diễn biến thời tiết bất thường. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, khá toàn diện. Nền kinh tế phục hồi và giữ đà tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 6,4%/năm. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) giai đoạn 2021-2025 tăng bình quân 7,2%/năm. Khu kinh tế Vũng Áng tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu. Điểm sáng nổi bật của năm 2025 là sự tăng trưởng vượt trội của các sản phẩm công nghệ cao: Sản phẩm Pack pin (ắc quy ion lithi) ước đạt 54 nghìn pack, gấp hơn 9 lần so với cùng kỳ; Nhà máy ô tô điện VinFast chính thức vận hành từ tháng 6/2025, ước sản xuất hơn 22.000 xe trong năm; Sản lượng điện sản xuất ước đạt gần 11 tỷ kWh, tăng 8%. Công tác thu ngân sách đạt kết quả cao. Tổng thu giai đoạn 2021-2025 ước đạt 90.600 tỷ đồng, tăng gấp 1,6 lần giai đoạn trước. Năm 2025, thu ngân sách ước đạt 19.900 tỷ đồng, vượt 112% dự toán. Chương trình nông thôn mới đạt thành tựu nổi bật, tỉnh đã có 8/8 nội dung tiêu chí hoàn thành nhiệm vụ. Tích tụ ruộng đất đạt hơn 13.445 ha. Chuyển đổi số đạt kết quả tích cực, chỉ số DTI năm 2024 xếp thứ 7/34 tỉnh thành.
|
|
Trưởng ban Kinh tế ngân sách HĐND tỉnh Nguyễn Thị Thúy Nga trình bày báo cáo thẩm tra về lĩnh vực kinh tế, ngân sách.
|
Bên cạnh những kết quả đạt được, Ban Kinh tế ngân sách thống nhất với những hạn chế theo Báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh và nhấn mạnh thêm một số vấn đề cụ thể như sau:
Chất lượng tăng trưởng và các chỉ tiêu kinh tế chưa đạt kỳ vọng: Mặc dù quy mô kinh tế tăng, nhưng tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 5 năm (6,4%) thấp hơn mục tiêu đề ra đầu nhiệm kỳ (6,5-7%). Công nghiệp chế biến chế tạo chưa đạt mục tiêu chiếm trên 25% GRDP. Kinh tế số mới chỉ đạt khoảng 14% GRDP, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 20%.
Môi trường đầu tư kinh doanh có dấu hiệu đi xuống: Một số chỉ số thành phần quan trọng trong PCI sụt giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến cảm nhận nhà đầu tư. Cụ thể, Chỉ số chi phí thời gian năm 2023 tụt xuống hạng 59/63; Thiết chế pháp lý và an ninh trật tự xếp hạng 56/63.
Thiệt hại do thiên tai lớn và các vấn đề môi trường còn nhiều tiềm ẩn: Năm 2025, thiên tai (03 cơn bão lớn: số 5, 6, 10) gây thiệt hại ước tính hơn 9.200 tỷ đồng. Diện tích gieo trồng lúa vụ mùa giảm gần 78,5%. Tỷ lệ che phủ rừng giảm xuống 48,9%, không đạt kế hoạch.
Đ iểm nghẽn hạ tầng và dự án treo: Giải ngân vốn đầu tư công nguồn địa phương quản lý năm 2025 chưa đạt kế hoạch (mới đạt 57,8%); các Chương trình mục tiêu quốc gia triển khai chậm. Hạ tầng số và dữ liệu còn manh mún, chưa ứng dụng điện toán đám mây.
|
|
Đại biểu tham dự
|
Về kế hoạch nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2026-2030 và năm 2025 , Ban Kinh tế ngân sách cơ bản nhất trí về mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu chủ yếu và các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu kế hoạch 5 năm 2026-2030 và năm 2025 như các dự thảo Nghị quyết. Ban đề nghị quan tâm thêm một số nhiệm vụ, giải pháp sau: Cần cụ thể hóa kịch bản "Tăng trưởng xanh" và "Hậu thép". Yêu cầu Formosa và các dự án nhiệt điện thực hiện nghiêm lộ trình chuyển đổi công nghệ, giảm khí thải. Tháo gỡ các điểm nghẽn chiến lược và đầu tư hạ tầng và logistics. Nâng cao hiệu quả tài chính - ngân sách và đầu tư công . Cải thiện môi trường đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp. Làm rõ nguồn lực tài chính cụ thể để phát triển hạ tầng khoa học công nghệ (phòng thí nghiệm trọng điểm, khu công nghệ cao) chứ không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu…
Về các t ờ trình và dự thảo Nghị quyết trên lĩnh vực kinh tế và ngân sách, Ban cơ bản thống nhất với các nội dung của Tờ trình, Dự thảo Nghị quyết và có một số ý kiến cụ thể như sau:
Nghị quyết Quy định chế độ ưu đãi tiền thuê đất đối với cơ sở thực hiện xã hội hóa, dự án phi lợi nhuận trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh: Xem xét không loại trừ việc miễn tiền thuê đất trong trường hợp dự án sử dụng đất thương mại, dịch vụ (tại khoản 1 Điều 2 dự thảo Nghị quyết) để phù hợp với quy định tại Nghị định số 230/2025/NĐ-CP và bản chất của chính sách xã hội hóa. Rà soát điều khoản chuyển tiếp để xử lý các trường hợp phát sinh từ ngày 19 tháng 8 năm 2025 đến nay.
Nghị quyết về việc kéo dài thời kỳ ổn định ngân sách giai đoạn 2022-2025 sang năm 2026; sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quy định về phân cấp nguồn thu, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia nguồn thu và phân cấp nhiệm vụ chi các cấp ngân sách địa phương giai đoạn 2022-2025; nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi thường xuyên ngân sách địa phương năm 2022: Quá trình cơ quan soạn thảo lấy ý kiến, đa số xã, phường kiến nghị xem xét tăng hơn nữa tỷ lệ điều tiết phần ngân sách cấp xã hưởng đối với nguồn thu tiền sử dụng đất để địa phương chủ động kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng, chủ động trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng các dự án trên địa bàn. Cơ quan soạn thảo đã nghiên cứu, tiếp thu nhiều nội dung. Qua nghiên cứu tài liệu, soát xét, tổng hợp, Ban Kinh tế - Ngân sách nhận thấy nhiều nhiệm vụ từ cấp huyện (cũ) đã được chuyển về cấp tỉnh, cùng với các nhiệm vụ trọng điểm khác của tỉnh cần nguồn lực lớn để thực hiện; mặt khác, thời kỳ ổn định ngân sách giai đoạn 2022-2025 chỉ kéo dài đến hết năm 2026; Vì vậy, tỷ lệ phân chia tiền sử dụng đất như dự thảo là phù hợp, hài hòa giữa nhiệm vụ của tỉnh và cơ sở.
Đối với định mức chi thường xuyên ngân sách cấp xã: Dự thảo Nghị quyết quy định đảm bảo quỹ tiền lương theo mức lương cơ sở đầu thời kỳ ổn định ngân sách là 1,49 triệu đồng cùng với điều khoản "Bổ sung phần chênh lệch...do tăng mức lương cơ sở". Trên thực tế thường có trượt giá và có thể phát sinh nhiệm vụ; vì vậy, với việc tính toán ở mức lương 1,49 triệu đồng (trong khi hiện nay mức lương cơ sở đã cao hơn), cấp xã sẽ gặp khó khăn trong triển khai thực hiện nhiệm vụ. Do đó, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh trong quá trình giao, điều hành dự toán chi ngân sách năm 2026, trên cơ sở khả năng cân đối của tỉnh tiếp tục quan tâm, xem xét hỗ trợ các địa phương.
Tiếp tục soát xét, khảo sát, định lượng toàn bộ nhiệm vụ của các cấp ngân sách theo mô hình hoạt động chính quyền địa phương hai cấp để kịp thời nghiên cứu, tham mưu xây dựng nguyên tắc, tiêu chí phân cấp nguồn thu, tỷ lệ phần trăm phân chia nguồn thu và phân cấp nhiệm vụ chi các cấp ngân sách địa phương giai đoạn 2027-2030 đảm bảo quy định pháp luật và phù hợp với thực tiễn.
Nghị quyết phân bổ và giao dự toán ngân sách nhà nước năm 2026: Dự toán thu nội địa năm 2026 giao 11.600 tỷ đồng, tăng 480 tỷ đồng so với dự toán Trung ương giao (11.120 tỷ đồng); trong đó thu tiền sử dụng đất 4.620 tỷ đồng (bằng với dự toán Trung ương giao). Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh có giải pháp thu để không ảnh hưởng đến chi đầu tư phát triển; tiếp tục rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc (nhất là vướng mắc về quy trình, thủ tục trong việc giao đất, cho thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất, xác định giá đất, nghĩa vụ tài chính đất đai) để khai thác có hiệu quả nguồn lực đất đai.
Để tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong giải ngân vốn đầu tư công, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh đẩy mạnh giải ngân ngay từ đầu năm 2026, kiên quyết hơn trong khâu bố trí vốn, không bố trí vốn cho các dự án chưa thực sự cần thiết hoặc không có khả năng giải ngân; thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư của các dự án khởi công mới; thu hồi các dự án không triển khai theo kế hoạch phê duyệt.
Danh mục đề nghị mua sắm tài sản, trang thiết bị, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, mở rộng trụ sở (tại Phụ lục 9) của các đơn vị rất lớn. Trong bối cảnh thực hiện tinh gọn bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính, nguồn lực ngân sách còn hạn hẹp, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh trong quá trình thực hiện rà soát, cắt giảm tối đa các khoản chi mua sắm chưa thực sự cấp bách; ưu tiên trang thiết bị phục vụ trực tiếp cho khám chữa bệnh và dạy học. Đối với sửa chữa trụ sở, chỉ thực hiện khi thực sự xuống cấp, gây mất an toàn; tránh sửa chữa dàn trải, lãng phí.
Năm 2025, Ủy ban nhân tỉnh đã tập trung quyết liệt rà soát, đánh giá các đề án, chính sách giai đoạn 2021-2025. Đề nghị tiếp tục bám sát Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX và căn cứ khả năng cân đối ngân sách, có lộ trình xây dựng hệ thống chính sách mới cho giai đoạn 2026-2030 đảm bảo trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả.
Thực hiện sắp xếp, bố trí, xử lý các cơ sở nhà, đất để bảo đảm cơ sở vật chất (trụ sở) cho bộ máy theo mô hình mới. Đối với các trụ sở dôi dư, xây dựng phương án đưa vào khai thác sử dụng phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả kinh tế, đúng quy định pháp luật, không để thất thoát, lãng phí.
Nghị quyết về Kế hoạch tài chính 05 năm giai đoạn 2026 - 2030 tỉnh Hà Tĩnh: v ề giải pháp thực hiện, đề nghị bảo đảm đồng bộ, thống nhất giữa Kế hoạch tài chính và Kế hoạch đầu tư công trung hạn; vừa tăng cường quản lý các cân đối lớn về tài chính, ngân sách, vừa chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách để kịp thời ứng phó với những biến động phức tạp về chính trị, kinh tế - xã hội trong và ngoài nước; tạo nền tảng để các cấp, các ngành phát huy tối đa lợi thế, tiềm năng và nâng cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Nghị quyết ban hành quy định về Bảng giá đất lần đầu áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 2026 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh: Tại khoản 9 Điều 8 dự thảo Nghị quyết quy định đối với các vị trí còn lại chưa có trong bảng giá thì giá đất xác định bằng “giá đất thấp nhất của xã, phường đó”. Trong khi đó, khoản 3 Điều 16 Nghị định số 71/2024/NĐ-CP quy định trường hợp thửa đất chưa được quy định trong Bảng giá đất thì cơ quan chức năng “căn cứ vào giá đất trong Bảng giá đất của khu vực, vị trí có điều kiện hạ tầng tương tự để xác định giá đất trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định”. Do đó, cần điều chỉnh quy định tại khoản 9 Điều 8 dự thảo Nghị quyết để phù hợp với khoản 3 Điều 16 Nghị định số 71/2024/NĐ-CP của Chính phủ.
Tại khoản 1 Điều 9, dự thảo Nghị quyết quy định “Đối với các xã, phường có sự thay đổi địa giới hành chính, thay đổi tên các thôn, tổ dân phố thì vị trí, giá đất tiếp tục áp dụng theo quy định tại Nghị quyết này cho đến khi Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ”; tuy nhiên, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, các xã, phường đã có sự thay đổi về địa giới hành chính và điều chỉnh tên gọi các thôn, tổ dân phố. Vì vậy, đề nghị soát xét kỹ, cập nhật đầy đủ, chính xác tên gọi mới để đảm bảo việc xác định các vị trí, tuyến đường trong Bảng giá đất đúng với thực tế hiện nay.
Nghị quyết về việc bổ sung kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và phân bổ kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025: Ban Kinh tế - Ngân sách nhận thấy tổng số vốn bổ sung kế hoạch năm 2025 là 68,2 tỷ đồng, theo quy định tại Khoản 1 Điều 72 Luật Đầu tư công số 58/2024/QH15 (được sửa đổi) quy định “bổ sung vốn sau ngày 30 tháng 9 năm kế hoạch để thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, dự án, thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn được bổ sung đến hết ngày 31 tháng 12 năm sau” ; do đó, xem xét ghi rõ trong Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về thời gian thực hiện và giải ngân của khoản vốn bổ sung năm 2025 là đến hết ngày 31/12/2026 để các đơn vị liên quan (Kho bạc Nhà nước, Sở Tài chính, Chủ đầu tư) có căn cứ pháp lý thực hiện thống nhất, không vướng mắc về thủ tục chuyển nguồn sau này.
Nghị quyết về kế hoạch đầu tư công năm 2026: Ban Kinh tế - Ngân sách nhận thấy: mặc dù tỷ lệ giải ngân tổng nguồn vốn đạt kết quả cao so với cả nước; song tình hình giải ngân năm 2025 vẫn gặp nhiều khó khăn, nhất là nguồn vốn nước ngoài ước tính cả năm chỉ đạt 37,2% kế hoạch; kết quả này tạo áp lực cho năm 2026 khi tiếp tục bố trí nguồn vốn lớn cho các dự án này. Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh cần phân tích kỹ nguyên nhân chủ quan từ phía các chủ đầu tư và công tác giải phóng mặt bằng để có giải pháp hữu hiệu trong năm 2026.
Về Kế hoạch đầu tư công năm 2026, tổng nguồn vốn ngân sách nhà nước dự kiến đưa vào phân bổ là 5.678,132 tỷ đồng. Ban đề nghị quan tâm một số nội dung sau: Vốn Ngân sách Trung ương dự kiến phân bổ 313,5 tỷ đồng; trong đó, bố trí tập trung 300 tỷ đồng cho 01 dự án chuyển tiếp "Đường vành đai phía Đông, thành phố Hà Tĩnh". Việc bố trí vốn tập trung cho dự án chuyển tiếp trọng điểm phù hợp với quy định ưu tiên bố trí vốn để hoàn thành dự án dở dang theo Luật Đầu tư công. Tờ trình nêu rõ đã đề xuất giảm 31 tỷ đồng so với kế hoạch thông báo (do tiết kiệm 5% và chưa xác định được dự án liên vùng). Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh chủ động xác định dự án liên vùng để kịp thời triển khai khi có hướng dẫn, nguyên tắc bố trí vốn của Trung ương.
Vốn ODA bố trí 656,732 tỷ đồng cho duy nhất 01 dự án: "Hạ tầng ưu tiên và phát triển đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu thành phố Hà Tĩnh". Với kết quả giải ngân năm 2025 của dự án đạt khoảng 12% kế hoạch (10,923 tỷ đồng), đòi hỏi năm 2026 cần giải pháp mạnh để đảm bảo hấp thụ được số vốn này.
Vốn Ngân sách địa phương (nguồn thu tiền sử dụng đất) tổng vốn phân bổ là 3.927 tỷ đồng, trong đó có 170 tỷ đồng bố trí cho "các dự án khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số" nhưng chưa phân bổ chi tiết theo quy định tại điểm a, khoản 7 Điều 70 Luật Đầu tư công năm 2024. Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh sớm trình Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định, hoặc Hội đồng nhân dân tỉnh phân cấp cho Ủy ban nhân dân tỉnh phân bổ chi tiết đối với nội dung này.
Tin mới cập nhật
- Phát huy trí tuệ đại biểu, góp phần nâng cao chất lượng nghị quyết HĐND tỉnh ( 09/12)
- Tư lệnh ngành Khoa học và Công nghệ trả lời nhiều câu hỏi bức thiết ( 09/12)
- Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch “đăng đàn” trả lời chất vấn ( 09/12)
- Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, siết chặt kỷ cương trong các lĩnh vực nội chính và tư pháp ( 09/12)
- Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, siết chặt kỷ cương trong các lĩnh vực nội chính và tư pháp ( 09/12)













