Không đánh đổi nền độc lập bằng một sự hòa bình lệ thuộc
EmailPrintAa
16:07 05/06/2014

Lịch sử ngàn năm phong kiến Trung Quốc đô hộ và ngay cả khi nước ta giành được độc lập thì họ thường xuyên đem quân sang xâm lược còn đó; nay lại chuyện của thời đại mới, khi mà hai quốc gia “láng giềng hữu nghị” đã trở thành hai nước xã hội chủ nghĩa, thành đồng chí của nhau thì vẫn luôn xẩy ra những sự kiện liên quan đến vấn đề lãnh thổ, biên giới, biển đảo do Trung Quốc gây ra làm ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ của hai dân tộc. Nổi lên là sự kiện năm 1974, Trung Quốc ngang nhiên đem quân chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam; những năm 70-80 xúi dục Khơ me đỏ đánh chiếm phía tây nam, tiếp đến gây chiến tranh biên giới phía bắc ngang nhiên đem quân sang đánh Việt Nam; rồi đến năm 1988 đánh chiếm đảo Gạc Ma và một số đảo ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam… Trung Quốc còn ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, hai quần đảo đã được Hội nghị quốc tế về lãnh thổ năm 1951 công nhận là của Việt Nam

Vào đầu tháng 5 năm 2014 Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Haiyang Shiyou (Hải Dương) 981 vào sâu 80 hải lí trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Để bảo vệ giàn khoan Trung Quốc đã cho trên 80 tàu, gồm tàu hải cảnh, tàu chiến, tàu phóng tên lửa và cả máy bay đánh chặn tàu kiểm ngư và tàu cảnh sát biển Việt Nam cách giàn khoan từ 7 đến 10 hải lí. Còn ở vùng biển thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tàu cá vỏ sắt của Trung Quốc xua đuổi và chủ động tấn công tàu đánh cá của Việt Nam gây nên tình hình căng thẳng và bất ổn ở vùng Biển Đông. Mới đây còn tuyên bố cấm vận, hòng không cho tàu cá Việt Nam vào đánh bắt vùng này!

Trước tình hình đó Việt Nam đã chính thức thông báo và lên án hành động sai trái của Trung Quốc, nhưng phía Trung Quốc trắng trợn cho rằng Việt Nam đang phá hoại việc khai thác dầu chính đáng của họ và giàn khoan HD-981 nằm trong vùng biển của Trung Quốc! Không thể chấp nhận được hành động xâm lược của Trung Quốc, các tầng lớp nhân dân Việt Nam cũng như dư luận trên thế giới hết sức bất bình và đấu tranh đòi Trung Quốc phải tháo dỡ giàn khoan HD-981. Đến nay Việt Nam đã liên lạc trao đổi với Trung Quốc trên 20 cuộc về vụ việc này. Ngày 6 tháng 5 năm 2014, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã có cuộc điện đàm với Uỷ viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì. Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Myanmar ngày 11 tháng 5 năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: “Từ ngày 01 tháng 5 năm 2014 Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan nước sâu cùng 80 tàu vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và hạ đặt giàn khoan tại vị trí nằm gần trên 80 hải lí trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo công ước LHQ và Luật biển (UNCLOS) năm 1982. Hành động cực kỳ nguy hiểm này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam và đang đe doạ hoà bình, ổn định, an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông”. Ngày 20 tháng 5 Việt Nam đã gửi Thông cáo tới văn phòng Liên Hợp quốc tố cáo hành vi đặt giàn khoan HD-981 trên vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, vi phạm ứng xử các bên về Biển Đông (DOC) năm 2002, cũng như thoả thuận cấp cao giữa 2 nước.

Có thể nói, tiếp nối những hành động của Trung Quốc thường xuyên gây tranh chấp trên Biển Đông tạo nên sự bất ổn ở vùng này, cùng với việc hạ đặt giàn khoan HD-981 vào vùng lãnh thổ của Việt Nam mang ý đồ chiến lược mà mới đây được Hội nghị TW III của Đảng cộng sản Trung Quốc tiếp tục khẳng định, đó là cần phải lấy lại vị thế của Trung Quốc và nhanh chóng đưa Trung Quốc thành một cường quốc số I thế giới. Để thực hiện được điều đó, Trung Quốc hết sức quan tâm đến việc khai thác Biển Đông, cửa ngõ đường biển thông thương với thế giới (hàng năm có từ 30 đến 40% lượng hàng vận chuyển biển của thế giới qua vùng này), đây cũng là vùng giàu tài nguyên khoáng sản và hải sản.

Vào năm 2009 Trung Quốc gửi báo cáo lên Liên Hợp quốc ngang ngược tuyên bố lãnh hải của họ ở Biển Đông bao chiếm cả một vùng rộng lớn hàng triệu km2 gồm chín đoạn và có “hình lưỡi bò” bao gồm cả lãnh hải của nhiều quốc gia khác. “Đường lưỡi bò” được Trung Quốc tự vạch ra không dựa trên cơ sở lịch sử và pháp lý nào, họ bất chấp cả Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp quốc, đơn phương đòi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán cả vùng này. Trong lúc đó theo Công ước Luật biển thì vùng biển được quy định từ đất liền trở ra 200 hải lí của quốc gia nào thuộc chủ quyền quốc gia đó.

Lần theo lịch sử thì ngay cả bản đồ của Trung Quốc in ra từ trước và cho đến đầu thế kỷ 20 vẫn ghi rõ cực nam của Trung Quốc là Nam Hải. Thời nhà Thanh cũng đã chính thức công nhận tất cả các đảo do Việt Nam (trong đó có cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ của Việt Nam. Chứng cứ lịch sử là vào năm 17 đời Minh Mạng (1836) đô đốc Phạm Hữu Nhật được vua sai đi đóng cột mốc ở Hoàng Sa, trên cột mốc đã ghi: “Vâng lời nhà vua, đô đốc Phạm Hữu Nhật đến Hoàng Sa để xem xét và ghi chú địa hình, đóng cột mốc để đánh dấu sự kiện”. Hiện nay đã tìm thấy được trên 800 châu bản của các đời nhà Nguyễn liên quan đến việc quản lý nhà nước đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Như vậy hành động Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa và gần đây lại hạ đặt giàn khoan HD-981 vào vùng lãnh thổ Việt Nam họ tự biết đó là hành động sai trái, đi ngược với lịch sử, không tuân thủ Công ước quốc tế và Luật biển năm 1982 mà họ đã ký, thế mà họ vẫn làm. Có thể lý giải chuỗi hành động sai trái này theo lô rích sau đây.

Khi vẽ ra “đường lưỡi bò” bao gồm một vùng chiếm gần 80% diện tích Biển Đông, nhưng Trung Quốc không xác định được vị trí thực địa cụ thể mà chỉ phác hoạ ra trên giấy rồi tuyên bố bâng quơ là vào những năm đầu thế kỷ 20 tàu của Trung Quốc đã đi qua vùng này và cho đó là “chứng cứ lịch sử” để buộc thiên hạ phải thừa nhận vùng đó thuộc lãnh thổ của mình! Cho nên để “làm nên lịch sử” ở thời đại này, Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa, một số đảo ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam và một số đảo, một số vùng của Philippin, Malaysia…, lần này hạ đặt giàn khoan ở trong vùng lãnh thổ Việt Nam là việc làm sai trái nhưng họ vẫn làm để không chỉ cho hiện nay mà còn chuẩn bị cho lịch sử về sau mặc nhiên xem đây đương nhiên là lãnh thổ Trung Quốc! Và rồi theo kiểu cách này, lần theo “đường lưỡi bò chín đoạn”, những bước tiếp theo Trung Quốc sẽ dùng sức mạnh của mình, bất chấp lịch sử, bất chấp luật pháp quốc tế từng bước, từng bước biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp, biến vùng biển quốc tế và vùng biển của nhiều nước thành vùng biển của mình, chiếm thêm các căn cứ mới đến khi hoàn chỉnh được “đường lưỡi bò” trên thực địa. Hiện tại thời điểm đang tiến hành thì bất hợp pháp, nhưng các thế hệ mai sau xem “đây là chứng cứ lịch sử” và hợp pháp “đường lưỡi bò”. Đó là cách làm của Trung Quốc theo kiểu thực dân đi xâm lược, dù đã lỗi thời nhưng vẫn cứ làm. Điều này chính Thủ tướng Singgapore Lý Hiển Long cũng đã nêu rõ: “Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981 ở Việt Nam đã gây xung đột và mối nguy hiểm ở ngay cửa ngõ chúng ta”.

Theo tài liệu điều tra địa chất mới đây thì được biết ở đáy vùng Biển Đông ngoài nguồn trữ lượng dầu mỏ không kém vùng Trung - Đông, thì còn có một bọc khí đốt rất lớn và đặc biệt còn có nhiều khoáng sản quý. Việc Trung Quốc trên con đường tiến tới cường quốc số I thế giới điều họ rất cần là nguồn năng lượng. Mặc dầu hiện nay các nhà đầu tư dầu khí của Trung Quốc đang đi khắp thế giới, ngoài nước láng giềng Nga thì họ đã đến Châu Phi, Châu Mỹ, đến Trung Đông… nhưng qua tính toàn thì chừng ấy vẫn chưa đủ, chưa nói đến những khó khăn về chính trị, xã hội và kinh tế ở những vùng này mà họ luôn phải giáp mặt. Vì thế bằng mọi cách tập trung vào việc xâm chiếm vùng Biển Đông dù phải trả giá đắt cho quan hệ trước mắt với các quốc gia trong vùng và dư luận quốc tế thì họ vẫn làm.

Một sự hiển nhiên nữa đã lộ nguyên hình, đó là vị trí của Mỹ ở khu vực này. Chính Tổng thống Barack Obama từng tuyên bố và mới đây chuyến đi thăm bốn nước Đông Nam Á đã nói lên chính sách “xoay trục” của Mỹ từ Châu Âu, Trung Đông sang Châu Á Thái Bình Dương. Trước việc Trung Quốc tranh chấp quần đảo Điếu Ngư với Nhật Bản, Mỹ đã tuyên bố là đứng về phía Nhật. Mỹ tiến hành hợp tác quân sự với Nhật, với Philippin, Malaysia v.v... với quy mô và cường độ ngày càng lớn hơn. Trong tình hình đó, nếu Trung Quốc không tìm cách nhanh chóng đứng chân và hợp pháp vai trò của mình ở đây, mà cốt lõi là vùng lưỡi bò thì sẽ chậm chân với Mỹ. Trong chiến lược giành quyền bá chủ ở Biển Đông, chắc chắn giữa Trung Quốc và Mỹ còn diễn ra nhiều hoạt động kể cả chính trị, kinh tế, ngoại giao và không loại trừ khả năng quân sự. Cho nên sự bất ổn nói chung ở vùng này do Mỹ và Trung Quốc gây ra còn lâu dài, trong đó có việc liên quan đến lãnh thổ của các nước là điều mà họ đang triển khai. Việc hạ đặt giàn khoan HD-981 của Trung Quốc vào vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam nằm trong chiến lược đó.

Trước tình hình này, thái độ đúng mực nhất của Việt Nam là kiên quyết lên án hành động sai trái, cực kỳ nguy hiểm của Trung Quốc. Làm cho dư luận quốc tế và ngay cả nhân dân Trung Quốc hiểu rõ việc làm sai trái này để họ đồng tình ủng hộ với việc đấu tranh chính nghĩa, hợp với lịch sử với luật pháp quốc tế của Việt Nam buộc Trung Quốc phải dỡ bỏ giàn khoan. Đã qua rồi thời thực dân kiểu cũ, thực dân kiểu mới, thế giới đang cùng nhau đấu tranh cho hoà bình, hợp tác và phát triển, chống chọi lại với biến đổi khí hậu, với khủng bố quốc tế… thì việc làm của Trung Quốc là không phù hợp và đi ngược lại với xu thế của thời đại, làm suy giảm hình ảnh và niềm tin của quốc tế đối với nước này.

Nhân dân Việt Nam từ thế hệ này đến thế hệ khác đã hy sinh xương máu để giành độc lập và tự do. Vì vậy bảo vệ nền độc lập, sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ là điều thiêng liêng nhất đối với mọi người dân Việt Nam dù là ai, dù sinh sống ở đâu. Trước hành động sai trái của Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan cùng một loạt các tàu hộ tống ra khỏi thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và Người nêu ra phương châm bất hủ: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ là bất biến. Ở Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về Đông Á 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã tuyên bố: “Việt Nam mong muốn hoà bình nhưng phải trên cơ sở đảm bảo độc lập tự chủ, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hoà bình hữu nghị viễn vông, lệ thuộc nào đó”. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta để giữ vững nền độc lập dân tộc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ ta có thuận lợi lớn là chính nghĩa, phù hợp với pháp lý và được dư luận quốc tế đồng tình. Bằng mọi biện pháp hoà bình, kể cả biện pháp pháp lý, tiến hành đấu tranh với Trung Quốc kiên quyết, không khoan nhượng, đứng vững trên quan điểm lịch sử, quan điểm luật pháp và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, trong đó có cộng đồng ASEAN. Lúc này cần phải chủ động, nhưng bình tĩnh linh hoạt và cảnh giác không để cho kẻ thù lợi dụng, kích động hòng xuyên tạc tình hình, hòng chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Trung Quốc; đồng thời hiểu đúng, hiểu đầy đủ về âm mưu và thủ đoạn của Trung Quốc để kiên quyết đấu tranh với hành động cực kỳ nguy hiểm này.