|
Đại biểu HĐND tỉnh chất vấn tại kỳ họp |
Thứ nhất, cần loại bỏ tư tưởng “ngại chất vấn”
Theo Điều 57, Luật Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân thì các hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân có hoạt động: Xem xét việc trả lời chất vấn của những người bị chất vấn quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 5 của Luật này. (Điểm đ, Khoản 1, Điều 5: Đại biểu Hội đồng nhân dân chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân ở địa phương).
Như vậy, chất vấn và xem xét trả lời chất vấn là một trong những hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân và hoạt động này đã được luật hóa. Vì vậy, không thể là muốn hay không muốn tổ chức phiên chất vấn tại kỳ họp Hội đồng nhân dân; cũng không nên nghĩ rằng chất vấn và xem xét trả lời chất vấn là việc gì đó nặng nề, căng thẳng giữa Hội đồng nhân dân và đối tượng bị chất vấn từ đó nảy sinh tư tưởng “ngại chất vấn”.
Thứ hai, xác định cụ thể đối tượng chất vấn
Theo Khoản 7, Điều 2, Luật Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân: Chất vấn là việc đại biểu Quốc hội nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; đại biểu Hội đồng nhân dân nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp và yêu cầu những người này trả lời về trách nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu.
Theo quy định trên, tại phiên chất vấn của kỳ họp Hội đồng nhân dân thì chủ thể chất vấn là các vị Đại biểu Hội đồng nhân dân, đối tượng chất vấn là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp. Như vậy, đối tượng chất vấn phải là những cá nhân với chức danh cụ thể. Tuy vậy, tôi thấy trong thực tế nhiều trường hợp lựa chọn đối tượng chất vấn lại là một cơ quan, một tổ chức. Do đó, nhiều khi chất vấn không làm rõ được trách nhiệm của cá nhân nên hiệu lực phiên chất vấn và xem xét trả lời chất vấn rất hạn chế.
Thứ ba, cân nhắc, lựa chọn thật kỹ vấn đề cần chất vấn
Khoản 1, Khoản 2, Điều 60, Luật Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã quy định: “Trước phiên họp chất vấn, đại biểu Hội đồng nhân dân ghi vấn đề chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu chất vấn và gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân. Căn cứ vào chương trình kỳ họp, ý kiến, kiến nghị của cử tri, vấn đề xã hội quan tâm và phiếu chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân đề nghị Hội đồng nhân dân quyết định nhóm vấn đề chất vấn và người bị chất vấn”.
Như vậy, việc nêu vấn đề chất vấn và người bị chất vấn trước hết thuộc trách nhiệm của các vị Đại biểu Hội đồng nhân dân; tham mưu lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn là trách nhiệm của Thường trực Hội đồng nhân dân; quyết định nhóm vấn đề chất vấn và người bị chất vấn là quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân. Quy định là thế, nhưng lâu nay chúng ta chưa phát huy được vai trò, trách nhiệm của các vị Đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc nêu vấn đề chất vấn, người bị chất vấn; đồng thời, cũng chưa thực hiện đúng quy trình khi lựa chọn vấn đề chất vấn. Do vậy, tại một số kỳ họp, vấn đề chất vấn chưa thật sâu sắc, chưa sát với trách nhiệm, quyền hạn của người bị chất vấn, chưa thực sự là vấn đề mà cử tri và Nhân dân quan tâm nhiều nhất.
Thứ tư, nắm vững quy trình tổ chức phiên chất vấn
Vấn đề đặt ra cho một phiên chất vấn đó là: chủ thể chất vấn phải tập trung vào vấn đề đã lựa chọn; đối tượng chất vấn phải hết sức nghiêm túc với trách nhiệm của mình đối với vấn đề mà Hội đồng nhân dân chất vấn mình nhằm cùng hướng tới mục đích là làm rõ những hạn chế, bất cập của vấn đề, rõ trách nhiệm của đối tượng chất vấn đối với những hạn chế, bất cập đó và giải pháp xử lý vấn đề trong thời gian tới. Vậy nên phiên chất vấn phải được thực hiện chặt chẽ theo đúng quy trình. Khoản 3, Điều 60, Luật Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đã quy định hoạt động chất vấn tại kỳ họp Hội đồng nhân dân được thực hiện theo trình tự sau đây: a) Đại biểu Hội đồng nhân dân nêu chất vấn, có thể cung cấp thông tin minh họa bằng hình ảnh, video, vật chứng cụ thể; b) Người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ vào vấn đề mà đại biểu Hội đồng nhân dân đã chất vấn, không được ủy quyền cho người khác trả lời thay; xác định rõ trách nhiệm, biện pháp và thời hạn khắc phục hạn chế, bất cập (nếu có); c) Trường hợp đại biểu Hội đồng nhân dân không đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại để người bị chất vấn trả lời; d) Những người khác có thể được mời tham dự phiên họp và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân về vấn đề thuộc trách nhiệm của mình.
Thời gian nêu chất vấn, thời gian trả lời chất vấn được thực hiện theo quy định tại Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Thứ năm, điều hành phiên chất vấn của chủ tọa kỳ họp
Để một phiên chất vấn và xem xét trả lời chất vấn đạt kết quả tốt, người điều hành phiên chất vấn cần lưu ý:
Dành thời gian nghiên cứu kỹ các vấn đề chất vấn, các báo cáo trả lời chất vấn của những người bị chất vấn, dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân về chất vấn để nắm thật chắc nội dung cốt lõi của vấn đề chất vấn những hạn chế, bất cập, trách nhiệm của đối tượng chất vấn, giải pháp khắc phục hạn chế bất cập trong tời gian tới.
Điều hành phiên chất vấn đúng trình tự, bảo đảm Đại biểu Hội đồng nhân dân nêu chất vấn và người trả lời chất vấn đi đúng trọng tâm vấn đề đã lựa chọn và không vượt quá thời gian quy định.
Linh hoạt, lượng hóa được độ mở cần thiết của vấn đề chất vấn và biết gút lại, kết thúc phiên chất vấn khi đã đủ điều kiện kết luận (rõ hạn chế và bất cập, rõ trách nhiệm, rõ biện pháp, thời hạn khắc phục hạn chế, bất cập của vấn đề chất vấn).
Thứ sáu, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về chất vấn
Thực tiễn cho thấy tại một số kỳ họp Hội đồng nhân dân thời gian qua, phiên chất vấn và xem xét trả lời chất vấn được tổ chức khá tốt, đối tượng chất vấn nhận trách nhiệm, đưa ra các giải pháp và thời hạn khắc phục các hạn chế, bất cập của vấn đề chất vấn. Tuy nhiên, sau kỳ họp Hội đồng nhân dân, vấn đề đã được chất vấn, thậm chí có những vấn đề được chất vấn nhiều lần nhưng vẫn không chuyển biến. Vì lẽ đó, sau phiên chất vấn và xem xét trả lời chất vấn, Hội đồng nhân dân cần phải ra Nghị quyết về chất vấn nhằm nâng cao hiệu lực của phiên chất vấn và để sau kỳ họp Hội đồng nhân dân có cơ sở để giám sát việc thực hiện trả lời chất vấn, yêu cầu người bị chất vấn báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về chất vấn theo quy định tại Khoản 7, Điều 60, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Tin mới cập nhật
- 09 nguyên tắc xây dựng Đề án chuyển đổi số đối với các bộ, ngành, địa phương ( 22/09)
- Cần sớm sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền của Thường trực HĐND ( 16/09)
- Vai trò của Hội đồng nhân dân tỉnh trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương ( 26/08)
- Những điểm mới quan trọng của Luật Đất đai năm 2024 ( 31/07)
- Những điểm mới Luật Lưu trữ (sửa đổi) ( 08/07)
- Giám sát Nghị quyết 43 - Xác định điểm nghẽn, đẩy nhanh tiến độ dự án ( 22/05)